Đình Đông Khê, xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng phụng thờ thần Tích Lịch Hỏa Quang làm thành hoàng làng, bảo trợ đời sống tinh thần cho nhân dân.
Sự tích về thần được kể rằng: Vào triều vua Hùng thứ 18, Hùng Duệ Vương định đô tại Việt Trì, Bạch Hạc. Vua là bậc hiền tài, giỏi thao lược, thánh triết phong tư, trong tu văn đức, ngoài gìn giữ biên cương, chăm lo cho muôn dân không nơi nào phải lầm than, đáng nối nghiệp 17 đời vua trước.
Thời ấy, khoảng thượng tuần tháng Giêng năm Canh Thân, tại địa phận phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây, dịch bệnh, thiên tai lan tràn với cường độ lớn. Tại trang Đông Khê, hàng ngày có đến bốn năm chục người bị mắc bệnh và hai ba chục người tử nạn, thuốc thang không hiệu, mọi người bàn nhau tấu lên triều đình. Được tin, nhà vua sai quân thần đến thực địa, cho quân sĩ lập đàn tràng, giết trâu, mổ dê làm lễ cáo yết trời đất. Buổi tế lễ đang diễn ra thì bỗng mưa kéo đến ầm ầm, trời đất tối tăm mù mịt, bỗng xuất hiện một tấm lụa đỏ từ đám mây vàng trên trời buông xuống trước cửa đàn. Mưa tạnh, trời sáng, hiện ra một cụ già râu tóc bạc phơ ngồi trên đàn mà nói rằng: Ta là thần nhà trời phụng mệnh đức Thượng đế có chiếu chỉ sai ta xuống hạ giới cứu tai nạn cho dân, đưa chúng sinh từ nơi than lửa bùn lầy, đặt lên nơi giường màn chiếu chăn êm ấm. Nói xong, ngài liền đi vào làng và cứu độ dân chúng. Trong vòng năm ngày, nhiều người được cứu khỏi bệnh. Dân chúng rất đỗi vui mừng, ơn tạc ghi sương, đem việc tấu lên triều đình. Nhà vua cảm phục, sai sứ thần về tấu lên nhà vua để ban sắc cho thần, duệ hiệu là Tích Lịch Hỏa Quang Đại vương, lại ban cho trang Đông Khê lập miếu thờ phụng ngài.
Nguyên khởi, nơi thờ tự thần Tích Lịch Hỏa Quang chỉ là ngôi miếu nhỏ. Dần dần, cùng với sự xuất hiện của loại hình kiến trúc đình làng tại vùng đồng bằng Bắc bộ vào thế kỉ XVI, đặc biệt với sự kính ngưỡng và truyền thống văn hóa lâu đời, nhân dân Đông Khê đã kiến tạo ngôi đình khá khang trang để thờ thần. Căn cứ vào hiện trạng kiến trúc và hệ thống di vật, đặc biệt hiện đình Đông Khê còn bảo lưu được hệ thống đá “Hậu thần bi ký” - niên hiệu Vĩnh Thịnh, bia “Đình tiền bi ký” - niên hiệu Chính Hòa thập niên, bia “Tân văn kỵ by ký” – Thành Thái nguyên niên, có khắc chữ Hán với nội dung ghi lại việc nhân dân hưng công, tu sửa di tích và việc bầu người làm hậu thần. Đây là những cứ liệu, cơ sở khoa học có giá trị để nhận định đình Đông Khê là một công trình kiến trúc cổ có niên đại nửa cuối thế kỉ XVII.
Nhìn tổng quan, đình Đông Khê có vị trí tọa lạc khá đặc biệt, giữa làng Đông Khê - bên bờ sông Đáy, kề với làng Đại Phùng nơi có sự hiện diện của ngôi đình Đại, một công trình kiến trúc cổ, điển hình của nghệ thuật đình làng thế kỉ XVII trên mảnh đất huyện Đan Phượng. Bên cạnh đó, đình Đông Khê cách sông Hồng khoảng 7 km về phía Đông và Đông Bắc…các yếu tố tự nhiên này đã phần nào khẳng định tính thiêng, tính đắc địa mà các tiền nhân đã lựa chọn để xây dựng đình.
Đình Đông Khê quay theo hướng Tây Nam, gồm các hạng mục kiến trúc: nghi môn, đại bái, hậu cung, tả hữu mạc.
Nghi môn được dựng phía bên trái sân đình với dạng thức nghi môn trụ biểu gồm ba lối đi. Lối đi chính được tạo bởi hai trụ biểu khá đồ sộ: đỉnh trụ là tứ phượng chầu, tiếp đến là mặt sập bốn hổ phù, ô lồng đèn đắp nổi tứ linh, thân trụ được soi gờ kẻ chỉ, đế thắt cổ bồng. Nối từ trụ biểu lớn sang trụ biểu nhỏ là hai cổng pháo, trên có trang trí hồi văn kiểu chữ triện. Hai trụ biểu nhỏ được kiến tạo tương tự như hai trụ biểu lớn, điểm khác biệt là đỉnh trụ biểu nhỏ đắp đôi nghê trong tư thế hướng mặt vào trong để kiểm soát tâm linh của khách hành hương trước khi vào lễ bái.
Từ cổng vào, qua sân gạch, hai bên là hai dãy tả hữu mạc được xây kiểu tường hồi bít đốc, hai mái chảy lợp bằng ngói ri, các bộ vì liên kết có dạng vì kèo quá giang sẽ hướng sự chú ý trọng điểm vào hạng mục Đại bái đình.
Đại bái gồm 3 gian 2 chái, bốn mái đao cong. Hệ mái của đình với bờ nóc trang trí hàng hoa chanh, hai đầu bờ nóc đắp hai con kìm cách điệu, giữa khúc nguỷnh đắp nghê, đầu đao đắp rồng lá …các chi tiết này góp phần tạo cho bộ mái đình có dáng cong mà mềm mại. Vào bên trong, tương ứng với 4 hàng chân cột là các bộ vì liên kết theo cách thức thống nhất kiểu: thượng chồng rường, hạ rường nách, bảy hiên.
Kết cấu kiến trúc Đại bái đình Đông Khê hiện tại là kết quả của lần trùng tu lớn vào thời Nguyễn, song vẫn giữ được nhiều chi tiết chạm khắc có giá trị của nghệ thuật điêu khắc thế kỉ XVII và XVIII. Tiêu biểu là các đầu dư được chạm hình đầu rồng trên khúc gỗ nguyên bằng kỹ thuật chạm lộng kết hợp với bong kênh khá tinh tế, tỉ mỉ. Đầu rồng với mũi hếch, miệng rộng, các đao mác thon nhọn chạy dài đến thân, đuôi cách điệu dạng cá chép – đặc trưng nghệ thuật điêu khắc thế kỉ XVII. Ngoài ra, trên xà đùi (cấu kiện gỗ tại bộ vì gian dĩ) chạm nổi các đao mác và mây cụm khá đặc sắc.
Nối gian giữa Đại bái đình là ba gian dọc Hậu cung trên mặt bằng chữ Đinh (dân gian gọi là chuôi vồ). Điểm nổi bật đáng chú ý tại Hậu cung đình Đông Khê là các bộ vì thượng được cổ nhân kiến tạo với kỹ thuật chạm bong kênh, chạm lộng khá tinh tế, qua đó gửi gắm những ước vọng, hoài bão của cư dân. Bộ vì thượng tại gian trong cùng (phía trên khám thờ) vốn là các con rường chồng khít lên nhau, chạm theo các đề tài dân gian thứ tự như sau: ở con rường áp câu đầu chạm ba hình mặt trời cách điệu – kiểu hoa cúc nối tiếp theo phương ngang, các đao mác của mặt trời này vươn dài chấm vào các đao mác của mặt trời kế bên. Phía trên là năm đầu rồng được tạo tác theo góc nhìn chính diện mặt. Đặc biệt, tại bên trái, các nghệ nhân còn chạm một tiên nữ có khuôn mặt đẹp, tay dơ cao trong tư thế múa uyển chuyển. Xen giữa các mảng chạm theo đề từng đề tài còn nổi bật lên những con thú nhỏ khá sinh động. Bộ vì thượng gian ngoài cũng được tạo tác theo kiểu thức tương tự như bộ vì gian trong với trang trí chủ đạo là đôi rồng nhìn nghiêng, các đao mác vân mây dày đặc, xen giữa là những con thú nhỏ. Bộ vì này là sản phẩm nghệ thuật điêu khắc thế kỉ XVII.
Bên cạnh giá trị nổi bật về kiến trúc nghệ thuật, đình Đông Khê hiện còn bảo lưu được hệ thống di vật khá phong phú, bằng các chất liệu khác nhau như: 3 tấm bia đá có niên hiệu Vĩnh Thịnh, Chính Hòa, Thành Thái; các bản sắc phong có niên hiệu trải dài từ thời Lê đến thời Nguyễn, bức hoành phi có niên đại thế kỉ XVIII; 1 bộ long ngai bài vị niên đại thế kỉ XVIII, 1 cửa võng chạm lộng có niên đại thế kỉ XVIII, 1 kiệu bát cống niên đại thế kỉ XVIII, nhiều hoành phi có niên hiệu trải dài từ thời Lê – Nguyễn…Đặc biệt, tiêu biểu là hương án được chạm bằng kỹ thuật chạm lộng, có niên đại khoảng đầu thế kỉ XVIII: Phía trước hương án chia thành các ô trang trí, phân chia giữa các ô là các đường gờ chạm đao mác dầy đặc. Trong các ô trang trí đề tài chủ yếu là linh vật rồng với thân cuộn, các đao mác sắc nhọn. Đặc biệt hai bên đầu của nhang án chạm rồng theo đề tài hiếm thấy trong mỹ thuật truyền thống, đó là rồng chạy xuyên qua biểu tượng mặt trời (các nhà khoa học gọi là “rồng ấp”).
Sắc phong thời Lê, niên hiệu Cảnh Hưng 44 (1783) tại đình Đông Khê (ảnh Kim Dung)
Về lễ hội truyền thống làng Đông Khê được tổ chức vào các ngày 11, 12, 13 tháng 3 Âm lịch hàng năm. Công việc chuẩn bị cho lễ hội được thực hiện chu đáo, tỉ mỉ từ việc chọn lựa thành viên ban tế, người viết văn, đội rước kiệu, đặc biệt theo khoán ước viết năm 1781 thì Đông Khê là ảnh cả, chịu trách nhiệm chủ trì lễ hội, chủ tế và tả văn cùng với 8 thôn anh em tham gia lễ Tổng Phùng. Trong 3 ngày lễ hội của làng Đông Khê thì trình tự các công việc được tiến hành như sau: Ngày 11 tế yết vào buổi sáng, tế mộc dục vào buổi chiều, tế hoàn cung vào buổi tối; Ngày 12 tổng tế yên vị cầu am, Ngày 13 dân làng tế tạ, mỗi tuần tế diễn ra trong 2 đến 3 giờ đồng hồ.
Trong các ngày lễ hội, bên cạnh phần lễ trang nghiêm, dân làng Đông Khê cũng tổ chức các hoạt động hội họp với các trò chơi dân gian như: đánh đu, leo cầu ao trước cửa đình, bắt vịt, thả chim bồ câu, chơi gà trọi, cờ bỏi, cờ người, thổi cơm thi, nấu bánh đúc bánh tẻ…buổi tối có liên hoan văn nghệ hát chèo văn, quan họ. Các hoạt động này đã thu hút được đông đảo nhân dân Đông Khê và dân làng vùng lân cận hưởng ứng, tham gia tích cực, góp phần củng cố khối đoàn kết toàn dân.
Với những giá trị nổi bật như trên, ngày 17 tháng 7 năm 2008, đình Đông Khê đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra Quyết đinh số 50/2008/BVHTTDL xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật. Đây là cơ sở pháp lý để dân làng Đông Khê bảo tồn, giữ gìn một di sản quý báu do cha ông để lại và phát huy giá trị di tích nhằm tuyên truyền lịch sử, truyền thống văn hóa lâu đời của địa phương … qua đó giáo dục tình yêu quê hương đất nước đối với thế hệ hiện sinh.
-
Tin tức mới hơn
- Tượng đài Phụ nữ Ba đảm đang 17/08/2023
- Miếu Voi Phục và Lăng Văn Sơn 17/08/2023
- Đình Ngũ giáp 17/08/2023
- Đình Bá Dương xã Hồng Hà 17/08/2023
- Đền Bà Sa Lãng 17/08/2023 Tin tức cũ hơn
- Đình Chùa Hạ Hội 18/12/2020
- Đình Vạn Xuân 18/12/2020
- Đền Văn Hiến 18/12/2020
- Danh nhân Tô Hiến Thành và đền Văn Hiến 12/04/2021
- Bà Chúa Ca trù 07/04/2021